Thứ Tư, 27 tháng 3, 2013

Người Loạn Chữ



Trăng mười sáu chiếu xiên qua hiên nhà, gió Nam rười rượi thổi. Chanh kéo chiếc chõng tre ra sân, quấn gọn mái tóc dài như suối rồi ngả lưng. Từ ngày mẹ mất, Chanh như thấy căn nhà rộng hẳn ra. Con gái đang thì, ngày đi làm hợp tác xã, bó bó lúa mút sợi lạt dài tám thước gánh chạy băng băng; tối về làm hết việc nhà cũng không thấy mệt; lại chờ sáng đi làm để được gặp chúng bạn.
Đêm nay cũng thế. Gió mơn man. Hương lúa dâng tràn. Chanh vẫn không sao ngủ được. Chiếc chõng tre liên tục phát ra những âm thanh lạo xạo mỗi khi chị trở mình. Người bức bối, Chanh vén áo lên tận ngực, kéo quần lên tận đùi…Thanh niên cả làng cứ đủ tuổi là vào bộ đội, đi chiến trường, còn ai mà giữ ý…
*
Hào vẫn đi như vậy mỗi đêm. Anh nhảy từng bước như cố bước qua cái bóng của mình in dài trên con đường, miệng lẩm nhẩm: Cái bóng là ai, cái bóng là ta, bước qua bước lại hoá ra là mình…
Hào là một trong số hiếm hoi người làng Thạch Bàn được vào đại học. Cả làng phục lắm. Học được một năm thấy anh khăn gói về làng, miệng không ngớt lẩm nhẩm, chân bước vô định, đi mãi trong đêm…
Mỗi ngày, dưới gốc tre nơi ông Đồng đặt cái băng gỗ cho người ngồi cắt tóc, đám con nít xúm xít quanh Hào để nghe kể chuyện. Chuyện Hào kể mãi không hết. Người ta bảo Hào học nhiều quá đâm ra loạn chữ. Dân làng vì thế quên dần tên anh, họ gọi anh là Người Loạn Chữ. Hào cũng quên tên mình luôn, ai hỏi, anh lại bảo ta họ Người, tên là Loạn Chữ!
*
Ngang nhà Chanh, Người Loạn Chữ leo lên bụi tre đằng ngà, đoạn đốt cây cây tre to nhất bóng lên như luôn được người chùi. Y ngồi như thế rất lâu, mắt đăm đắm nhìn vào hiên nhà. Trên chõng tre, Chanh vẫn cựa mình. Dưới ánh trăng đêm, da thịt con gái như nõn nà hơn.
Dường như không có gì ngạc nhiên khi thấy Người Loạn Chữ trên bụi tre, thằng Tủn và đám con nít bẻ một chiếc gai bông lồ nhọn hoắt châm vào mông y. Y không giật mình, giọng tỉnh rụi: “Tao biết rồi, cút đi, mai tao kể thêm cho một chuyện”. Đám con nít khoái chí: “Ngéo tay nghe!”. “Ừ!”- Y đáp nhưng vẫn không quay lại. Thằng Tủn vẫy tay ra hiệu cho đám con nít đi.
Trưa hôm sau, tụi con nít tụ tập dưới gốc tre chỗ ông Đồng cắt tóc. Người Loạn Chữ như mọi khi, bằng giọng kể chuyện cuốn hút của mình, bắt đầu:
“Có một người đi đường bị cọp rượt chạy trối chết. Chạy cùng đường, anh ta nhảy đại xuống một cái hố sâu. May sao vớ được một sợi dây leo và đeo lủng lẳng giữa không không…Nhìn lên miệng hố, thấy con hổ đang há miệng chờ mồi. Dòm đầu dây thấy hai con chuột một trắng một đen đang gặm mòn cái dây mình nắm…Nhìn trước mặt, thấy một trái dâu chín mọng xà lị…”. Y ngừng kể, đám con nít xôn xao: “Rồi sao, rồi sao chú?”. Y hỏi: “Theo tụi bây thì phải làm sao?”. Đám con nít thi nhau đưa ra cách xử lý tình huống. Y lắc đầu, hít một hơi dài rồi tiếp: “Anh ta một tay nắm sợi dây, một tay với hái trái dâu bỏ vào miệng”. Y nuốt nước bọt đánh ực: “Ui cha, trái dâu ngọt lịm cả người!”.
Bọn trẻ bất ngờ à lên cùng lúc. Ông Đồng nhắp nhắp cái kéo, miệng hít hà: “Cái thằng, thế mà tài!”
*
Giã xong cối gạo, Chanh vào nhà xách thùng nước ra hiên dội liên tục cả chục gáo rồi mới cởi cái áo dính bết vào người vứt lên chõng. Chị nhìn xuống ngực rồi bật cười…
Tuần trước chi đoàn tổ chức đám cưới vắng mặt các chú rể cho năm cô dâu. Nghe chị Nguyệt bí thư vận động, không hiểu sao Chanh lại đăng ký tên minh cùng cặp với Vinh. Vinh là hàng xóm, cũng là bạn học cùng lớp với Chanh, hai người thân nhau từ nhỏ. Ngày cha mẹ Chanh chưa bị bom, hai người quý Vinh lắm. Vinh mồ côi từ sớm, hai anh em tự làm lụng nuôi nhau. Anh trai Vinh tên Quang giờ đã có hai con gái, đứa lên mười, đứa lên bảy. Vợ anh bị bom năm ngoái khi đi làm thuỷ lợi. Anh lam làm, về nhà lại đảm đang như một phụ nữ, cả làng ai cũng quý. Hôm đám cưới, anh Quang thay mặt nhà trai phát biểu rồi hát một bài. Mọi người vỗ tay rào rào yêu cầu hát lại. Anh xin phép bà con hai họ cho anh đọc một đoạn trong lá thư Vinh mới  gửi về. Trong thư, Vinh thông báo cho anh trai biết anh đã lên trung đội trưởng, đang đánh nhau ở mặt trận phía Nam . Vinh gửi lời thăm Chanh và hỏi anh, nếu có cô em dâu như Chanh anh có bằng lòng không. Đến đoạn này anh hỏi to lên: “Theo bà con tôi có bằng lòng không?”. Cả đám cưới đồng thành: “Có!”
Từ ngày “làm dâu”, Chanh như thấy mình có trách nhiệm hơn. Đêm đêm xong việc, chị hướng dẫn hai cháu học hành. Thỉnh thoảng lại sang nhà giúp bố con anh vài việc lặt vặt…Thấy mình đỡ chông chênh hơn.
Chanh dội nước lên đầu. Dòng nước thấm qua mái tóc dài, chảy lên da thịt thấy nhồn nhột. “Thế là mình có chồng rồi à? Sao đám cưới không có chú rể mà ai cũng vui thế nhỉ? Giá mà…”-Chanh thở dài.
*
Người Loạn Chữ vẫn bước vô định mỗi đêm và cây tre đằng ngà to nhất trong bụi đã bóng hẳn lên. Bọn con nít kháo nhau, sẽ có ngày Người Loạn Chữ hết chuyện để kể. Thế mà từ năm này sang năm khác, gốc tre nơi ông Đồng đặt cái băng dài cắt tóc giờ đã thành bụi tre khổng lồ, Người Loạn Chữ vẫn chưa hết chuyện. Chỉ có điều, sương gió làm da anh khô sắt lại, đen đùi đủi, tóc bắt đầu lốm đốm bạc…
Rặng tre đằng ngà cao lên, ngôi nhà tranh của Chanh như càng nhỏ lại và thấp xuống, Vinh vẫn chưa một lần ghé qua nhà.
Một đêm như nhiều đêm khác, Chanh kéo chiếc chõng ra hiên. Từ ngày đám cưới đến nay, làng có thêm bốn liệt sĩ. Trong năm người cùng cưới, chỉ có Lành xóm Hói đã có con vào dịp chồng về nhận quân. Phúc thật! O Thiu lớn tuổi nhất năm người chưa thành đàn bà đã thành vợ liệt sĩ.
“Mà thôi, nghĩ làm gì…”- Chanh tự nhủ rồi cố chợp mắt. đêm qua đã không ngủ được vì cả làng náo lên với chuyện anh Lai hủ hoá bị bắt quả tang. Lai bị teo một chân, làm thú y của xã, ngày ngày đi hết làng này đến làng khác tiêm heo. Không biết thèo quèo thoẹt quẹt thế nào mà đi lại được với o Bé có chồng đi B. Đêm hôm ấy ông Phen chỉ huy đội dân quân phục sẵn, trói gô hai người đang tồng ngồng khiêng ra trụ sở hợp tác xã. Khi Chanh đến nơi đã nghe ông Phen sang sảng: “Tôi phải chỉ đạo anh em kiên trì mai phục, cho đến khi người nằm trên người mới hô xung phong. Hờ hờ, không kiên trì làm sao thành công rực rỡ như thế này!”. Chanh cả thẹn, bỏ về.
Tưởng tượng cảnh đội dân quân phải rình suốt đêm. Từ khi anh Lai vào nhà cho đến khi người nằm trên người như ông Phen nói, tự nhiên người Chanh nóng ran lên. Mà quỷ thiệt, sao mình nghĩ chuyện vớ vẩn đó làm gì nhỉ? Chanh nhắm mắt, cố gạt hết mọi chuyện…
*
Ai đó? Anh Vinh! Anh về thật rồi à? Người Chanh nao cả lên. Anh không nói gì, chỉ lặng lẽ nhìn cô say đắm. Chanh bủn rủn hết chân tay. Vinh lao đến, ghì riết lấy cô. Người cô như có ngọn lửa bùng lên rừng rực. Chớp đông loang loáng, có lẽ sắp mưa. Anh bế bổng cô lên bằng đôi cánh tay rắn chắc, đi thẳng vào nhà, đặt cô trên chiếc giường duy nhất có. Trong hơi thở hổn hển, cô như thấy người mình sắp vỡ tung ra. Một thoáng thẹn thùng không đủ cưỡng lại khát khao dồn nén. Mưa đột ngột ào xuống, lộp bộp trên tàu lá sau vườn, trong thoáng chốc, tiếng ếch rền vang cả cánh đồng…Cô không còn nghe thấy gì, không kịp nghĩ gì, chỉ một khát khao bản năng vỡ òa…
Rồi cô nghe anh nói gì đó, hình như anh phải đi, hình như anh phải chạy rất nhiều cây số để về nhà gặp cô…Đầu óc cô mê mệt, chân tay rã rời, cô muốn kéo anh lại, muốn nói một câu gì đó nhưng không thể…
Trời rạng. Sau mưa, mặt đất ngập tràn hương cỏ. Chanh tỉnh dậy, có cảm giác như trải qua cơn mê. Nhưng sức lực của anh, hơi thở của anh vẫn còn đâu đó trên người cô…
Cô rón rén sang nhà anh chồng, với hy vọng là Vinh còn ở đó. Vừa đến hàng rào đã nghe giọng Quang oang oang giải thích bài học gì đó về bộ đội cho các con: “Bộ đội tranh thủ về được nhà một lúc đã quý lắm rồi, nhiệm vụ phải đặt lên hàng đầu…Con đi học đi, có gì không hiểu trưa về tìm Người Loạn Chữ hỏi  thêm…”
Chanh tần ngần một chút rồi quay về.
*
Lũ con nít ngồi há hốc mồm nghe Người Loạn Chữ kể chuyện, thỉnh thoảng lại cười ré lên, thỉnh thoảng lại xuýt xoa, thán phục.
Chanh đi làm về, không hiểu sao cô lại sà vào bắt chuyện với mấy người lớn dưới gốc tre ông Đồng. Câu chuyện đã đến hồi kết, Người Loạn Chữ hạ giọng: “Trang Châu chiêm bao thấy mình là bướm, vui phận làm bướm, tự thấy thích chí, không biết mình là Châu nữa. Chợt tỉnh giấc, lại thấy mình là Châu. Không biết Châu chiêm bao là bướm hay bướm chiêm bao là Châu…”
Lũ con nít vò đầu bứt ta không hiểu. Chanh lẳng lặng ra về.
*
Nghe tiếng Chanh nôn oẹ trước cổng, anh Quang cùng hai đứa nhỏ chạy ra. Bé lớn hốt hoảng: “Thím sao thế thím, ba ơi, thím có sao không?”. Quang vừa dìu Chanh vào vừa quát: “Nhúng khăn ướt, mau. Còn sao nữa, thím sắp có em!”. Hai đứa trẻ không hiểu gì, quýnh quáng cả lên.
Hôm sau cả chi đoàn hay tin kéo đến chúc mừng.
*
Sau ngày nhận được giấy báo tử Vinh, Chanh như nhiều người vợ liệt sĩ khác trong làng, một mình nuôi con, vừa tham gia công tác phụ nữ xã. Người làng bảo nhà anh Quang có phúc nên mới có cháu nối dõi tông đường.
Thời kinh tế mở, ông Quang trở thành chủ trang trại. ông cũng đã thành ông ngoại. Ông Đồng cắt tóc đã qua đời. Dưới gốc cây, một quán cắt tóc tươm tất hơn được dựng lên, chủ quán là anh thương binh con trai ông Đồng nối nghiệp cha.
Làng Thạch Bàn cái gì cũng mới, trừ Người Loạn Chữ. Tuy râu tóc ông đã bạc nhưng mỗi ngày ông vẫn kể các câu chuyện trong cái kho vô tận của ông cho không biết bao nhiêu thế hệ trẻ nít trong làng.
Cuộc sống cứ thế trôi qua nếu không có câu chuyện làm cả làng sôi lên sùng sục.
Ông Quang bị bệnh nan y qua đời. Trong di chúc để lại theo di nguyện của ông được công khai khi có mặt chính quyền, phần đầu như một lá thư, ông in lỗi bà con làng xóm, con gái, con rể và cả chị Chanh, ông bảo thằng Lồi con chị Chanh chính là con trai của ông, vì thế nó được quyền thừa kế một nửa gia sản.
Chị Chanh ngả ra bất tỉnh. Cả làng xôn xao, mỗi người tự kể câu chuyện theo cách tưởng tượng của mình.
Chị Chanh xin thôi việc ở xã, sống lặng lẽ như một cái bóng. Chị vừa tủi nhục, xấu hổ vừa bán tín bán nghi. Thằng Lồi là niềm an ủi duy nhất của chị, nó chính là cuộc đời chị. Biết bao phụ nữ trong làng còn bất hạnh hơn chị nhiều. Tự trấn an mình như thế, nhưng nỗi cay đắng vẫn dày vò chị. Làng xóm có còn ai tin vào chị khi chị đã lừa dối họ ngần ấy năm? Làng xóm có còn ai coi một kẻ loạn luân như chị ra gì?
Chỉ có bọn trẻ nít hình như không cần quan tâm đến chuyện người lớn, dưới bụi tre ông Đồng, nó vẫn say sưa nghe Người Loạn Chữ kể: “Một đám đông kéo người phụ nữ đến trước mặt Jésus, họ thưa: Dâm phụ này bị bắt quả tang khi phạm tội. Theo luật Moise thì phải bị ném đá, vậy ông nghĩ sao? Jésus ngước lên, nói: Trong tất cả mọi người ở đây, ai là người chưa từng làm điều gì tội lỗi có quyền ném viên đá đầu tiên! Nghe lời Jésus phán, dân chúng tản dần…Sau cùng, chỉ còn người đàn bà và Jésus, Jésus hỏi: Những kẻ tố cáo đi đâu cả rồi? Không một ai ném đá vào ngươi cả sao? Người đàn bà thưa: Không ạ! Jésus nói: Ta cũng vậy, thôi về đi! ”
Ông Phen đang ngồi cắt tóc nghe kể xong nhổm dậy, bị cái kéo xắp vào tai máu chảy ròng ròng, tay nắm lấy cái tai chảy máu, ông quát lên: “Sao không ném được. Phải ném cho dâm phụ ấy chết đi!”. Người Loạn Chữ bước ra khỏi bụi tre, vừa cố bước qua cái bóng của mình vừa lẩm nhẩm: “Cái bóng là ai, cái bóng là ta, bước qua bước lại hoá ra là mình”…
*
Câu chuyên rồi cũng lắng xuống, cho đến một ngày…
Người thương binh cắt tóc phát hiện ra Người Loạn Chữ nằm chết ngay trong quán của mình, tay vẫn cầm một tờ giấy. Cả làng hay tin xúm đến, trẻ nít khóc như ri. Người thương binh gỡ tờ giấy vuốt thẳng rồi đọc to lên. Người Loạn chữ viết không nhiều, đại ý ông mới là cha của thàng Lồi. Ông Quang nhận vơ thế chẳng qua là vì lúc lâm bệnh, biết hai đứa con rể ông đã có dã tâm tranh giành, ông buộc phải làm thế để thằng Lồi được chia gia sản của ông mà có điều kiện học hành thành tài. Còn chính ông, Người Loạn Chữ mới là người đã mặc áo quần bộ đội, giả dạng anh Vinh đêm đó. Ông bảo chị Chanh không có lỗi, chính ông mới là người có lỗi…Người Loạn Chữ bảo ông buộc phải nói ra vì thấy của cải không làm con người ta sung sướng khi phải sống suốt đời với hai chữ loạn luân…
Trong lúc mọi người đang há mồm kinh ngạc, chưa phân biệt mô tê thì người thương binh bảo im lặng, và đọc tiếp: “Tôi xin kể câu chuyện cuối cùng trong kho chuyện của tôi”. Đám con nít thôi khóc chen vào.
“Trang Tử cùng Huệ Tử đứng chơi trên cầu hào thành. Trang Tử nói: Cá đang bơi lội thung dung. Cá vui đó! Huệ Tử hỏi: Ông không phải là cá, sao biết cá vui? Trang Tử nói: Ông không phải là tôi sao, sao biết tôi không biết? Huệ Tử nói: Tôi không phải là ông nên tôi không biết được ông, còn ông không phải là cá nên ông cũng không sao biết được cái vui của cá! Trang Tử nói: Xin xét lại câu đầu. ông hỏi tôi làm sao biết được cá vui? Đã biết là tôi biết ông mới hỏi làm sao biết. Thì đây, làm thế này này: Tôi đứng trên hào thành nên biết được!”
Người thương binh bỏ tờ giấy xuống ngực Ông Loạn Chữ rồi cúi đầu theo kiểu mặc niệm nhà binh. Mọi người cúi theo. Chỉ nghe tiếng trẻ con thút thít. Ai đó thắp lên một nén nhang, khói bay mờ ảo.

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét