Đi Mỹ ở Tiên Sa
Chúng tôi làm thủ tục hải quan cửa khẩu ở
cảng Tiên Sa, TP Đà Nẵng, được kiểm tra cẩn thận và chỉ cần vài chục bước chân,
thế là lên tàu sang...Mỹ. Trung tá John T. Lauer và 303 sĩ quan và thuỷ thủ
quân phục trắng lốp, tinh tươm, xếp hàng nghênh đón. Cứ như mình là...nguyên
thủ, chỉ có những khẩu đại bác là...trùm mền.
Tôi khoái chí từ khi được Tổng lãnh sự Hoa Kỳ tại TP.Hồ
Chí Minh cấp cho chiếc thẻ lên tàu cực “xịn”, tưởng chỉ mình có sự sung sướng
này, hoá ra, Sở VH - TT và Biên phòng TP Đà Nẵng đã cấp hàng chục thẻ (cho dù
không đẹp bằng) để cho những người khác cùng có quyền như tôi.
Xin nói ngay để bạn đọc khỏi...hồi hộp, rằng, chúng
tôi chỉ lên tàu chiến hải quân Hoa Kỳ
USS Curtis (số hiệu DDG54) khi nó cập cảng Tiên Sa, nhưng thủ tục thì cứ y như
là đi...Tây vậy! Bởi theo công pháp quốc tế, chúng tôi đã bước chân vào lãnh
thổ Hoa Kỳ mà các chiến hạm này là đại diện (như một lãnh thổ hải ngoại).
Chỉ huy chiếc tàu chiến kềnh càng trọng tải 8.315 tấn
này là trung tá John T. Lauer, ông bảo, tàu đến vịnh Đà Nẵng khi vầng đông hừng
sáng, mặt trời “từ dưới biển” dần dần nhô lên đẹp một cách...kinh khủng. Toàn
bộ thuỷ thủ đoàn háo hức như muốn “dọt” ngay lên bờ, để được đặt chân lên đất
Việt Nam, nơi mà với họ gần như chỉ nghe qua sách báo. Nhìn gương mặt của các
thuỷ thủ, tôi tin ngay điều John nói.
Tại cuộc họp báo được tổ chức ngay trên boong tàu, đại
sứ Hoa Kỳ tại Việt Nam Raymont Burhadt nói rằng, 40 năm trước, tàu hải quân Mỹ
đã đổ quân lên bãi biển Xuân Thiều bên vịnh Đà Nẵng, và 40 năm sau, họ quay trở
lại nhưng với một mục đích hoàn toàn khác, đó là hoà bình và hữu nghị.
Tôi giật mình khi một thuỷ thủ đứng cạnh bất ngờ hỏi
bằng...tiếng Việt: “Anh quê ở đây à?”. Hoá ra, anh chàng đeo quân hàm trung uý
này là người gốc Việt. Tôi mừng như “trúng số”, ngỏ ý muốn hỏi han anh đôi điều
(vì nghĩ chắc thú vị lắm) để có thêm tình tiết hay cho bài viết của mình, nhưng
chàng trung uý nghiêm nét mặt vẻ nhà binh và “sorry” liền.
Một tuần lưu lại Đà Nẵng (từ 28.7 đến 2.8.2004), các
thuỷ thủ có nhiều hoạt động giao lưu với hải quân vùng 3, đi tham quan Đà Nẵng
và đô thị cổ Hội An. Tôi thực sự ấn tượng khi họ đến cái lô cốt được xây lên từ
hồi chiến tranh bên bãi biển Xuân Thiều - nơi ngày trước lần đầu tiên người Mỹ
đổ bộ lên đất Việt Nam và từng bị đánh bật ra ở đó - để tranh nhau chụp ảnh.
Gương mặt tươi trẻ và trong sáng của họ không in bất kỳ dấu ấn nào của quá khứ,
của chiến tranh. Có lẽ vì họ là một thế hệ khác, có một suy nghĩ khác, tất cả
vì một thế giới hoà bình.
Đi Nga… vịnh Đà Nẵng
Sừng sững hai tàu chiến hiện đại của Hạm đội Thái Bình
Dương đã cập vào cầu cảng số 3 và 4 của thương cảng Tiên Sa trên vịnh Đà Nẵng.
Làm xong thủ tục với Bộ đội Biên phòng
trên cầu cảng, chúng tôi đã bước một chân vào... lãnh thổ nước Nga mà các chiến
hạm này là đại diện. Một sĩ quan trẻ trong lễ phục trắng thẳng nếp nghiêm chào
khách ở chân cầu thang. Vladimia, tên người sĩ quan trẻ ấy, nói tiếng Việt
giọng miền Bắc: “ Mời quý anh đi theo lối này!”. Thì ra, sau đó, chàng lính 20
tuổi này kể, anh đã có ba năm ruỡi học
tiếng Việt tại Đại học Khoa học xã hội và Nhân văn Hà Nội trước khi vào học
viện hải quân! Một đồng nghiệp đi cạnh tôi nói vui: “Vào nước Nga mà gặp ngay
người nói tiếng Việt, coi như chúng tôi gặp được bạn mình vậy!”. Lại một sĩ
quan khác, cũng nói tiếng Việt: “ Thì chúng ta là bạn cũ mà!”. Chúng tôi cùng
vui vẻ theo họ, lách qua những thiết bị chằng chịt màu xám lên boong tàu. Ở đó,
Phó đô đốc hải quân Nga Xergey Avromenco Victorovic, Phó chỉ huy trưởng hạm đội
Thái Bình Dương và nhiều sĩ quan cao cấp khác đã chờ sẳn ở bàn làm việc có đặt
sẵn hai lá quốc ký Nga Việt bên nhau..
Ôâng ra bắt tay từng người thân mật
trước khi giới thiệu lý do đến Việt Nam lần này!
“Con tàu Varyag
đầu tiên được đóng tại xưởng đóng tàu Krump của bang Philadelphia ( Mỹ) vào năm
1898 theo đơn đặt hàng của Bộ Hải quân Sa hoàng. Nó thừa kế từ tên của một
thuyền chiến đã bị hư hỏng từ trước đó hai năm. Đến năm 1901, cờ của Sa hoàng
Nga đã được kéo lên boong tàu và được
đưa từ Mỹ về Kronshtadt, rồi về Nga và được biên chế vào đội tàu chiến Thái
Bình Dương. Tháng 12 năm 1903, đô đốc hải quân Vsevolod Rudnve được chỉ định
chỉ huy tàu. Năm đó, Varyag đã tiến vào các cảng biển của Nhật, Trung quốc và Triều tiên thi hành các nhiệm vụ quân sự.
Từ 12.1903 toàn
bộ thuỷ thủ đoàn đóng quân tại cảng Chemulpo và cùng với pháo hạm Koreyets làm
nhiệm vụ bảo vệ đại sứ quán Nga. Bên cạnh những tàu chiến Nga tại Chemulpo còn
có các chiến hạm của Anh, Pháp, Ý, Mỹ và Nhật.
Từ ngày 27
tháng giêng năm 1904, khi chiến tranh Nga- Nhật xảy ra, Varyag và chiến hạm
Koryeyets đã chiến đấu dũng cảm với hải quân Nhật. Hàng chục người lính bị
thương và hy sinh trong tổng số 85 thuỷ thủ. Varyag đã được lệnh đánh chìm để
không rơi vào tay lính Nhật”. Những sĩ quan Hải quân Nga đã kể với các vị khách
nhà báo Việt Nam lịch sử oai hùng của
chiến hạm Varyag như vậy.
Ngày nay
tàu chiến tên lửa Varyag trở thành một
biểu tượng sức mạnh của hạm đội Thái Bình Dương. Bắt đầu từ năm 1996, Varyag
trở thành tàu Varyag trở thành tàu quân sự nhờ vào các thiết bị ra đa và truyền
tin hiện đại được trang bị. Vladimia cho biết: ““Mọi thuỷ thủ trên tàu vẫn được
thường xuyên liên lạc được với bạn bè ở nhà... Hiện nay, Varyag đã ký kết một
thoả thuận lên quan đến việc bảo trợ của hãng hàng không Vladivostok. Các nhà
tài trợ đã thăm viếng thường xuyên chiến hạm và có các hoạt động hỗ trợ đời
sống cho toàn bộ thuỷ thủ đoàn. Mọi người đều là những chuyên viên được đào tạo
tại các học viện hải quân, tuổi trung bình của họ là 35. Là chiến hạm đô đốc của lực lượng Hải quân TBD,
Varyag thực hiện nhiều lần các chuyến thăm hữu nghị đến các cảng của các nước
thuộc khu vực Châu Á- Thái Bình Dương. Thuỷ thủ đoàn Varyag cũng nhiều lần tiếp
các vị lãnh đạo cao cấp nhất, kể cả Tổng thống Putin, đến thăm..."
Vladimia kể thêm: "Rời giảng đường đại học và trở thành thủy thủ của chiến
hạm đô đốc Varyag và trở lại thăm Việt
Nam là ước mơ của anh cũng như nhiều bạn trẻ khác trên tàu..."
Những sĩ quan
Hải quân hướng dẫn chúng tôi “đi thăm nhà” của họ với một thái độ thân mật và
chu đáo. Trong giọng nói của những người lính đã dạn dày suốt mặt biển Thái
Bình Dương ấy, như chứa đựng cả niềm hãnh diện của một sự nghiệp có truyền
thống qua ba thế kỷ của Varyag! Tôi chợt nhớ đến câu nói của nhân vật Piere của
Lev Tolstoi trong “Chiến tranh và Hoà bình”: “ Khi chúng ta bị xô ra khỏi con
đường mòn quen thuộc thì chúng ta tưởng thế là mất hết. Nhưng chính lúc đó mới
bắt đầu một cái gì mới mẻ, tốt đẹp”. Vì thế, những chàng trai, như Vladimia,
cũng có những niềm hạnh phúc riêng của họ trên đại dương!
Những ngày cập cảng Tiên Sa (27.11 đến 2.12.2005),
chiến hạm mở cửa cho người dân lên tham quan một cách thoải mái. Đó là điều
chưa từng xảy ra. Còn tôi, thế là đã một lần đến nước Nga thân thương như trong
ký ức.
Chào mừng quý khách
Thưa quý vị,
Chúng tôi vô cùng vinh dự được tiếp đón
quý vị lên tàu. Chiến hạm của chúng tôi được trang bị những loại vũ khí mạnh và
tối tân. Tuy nhiên các thuỷ thuỷ đều
thật sự tin tưởng rằng vũ khí cao nhất của họ luôn bao gồm lòng chân thành và
sự hiếu khách của nước Nga.
Chúng tôi hy vọng rằng quý vị sẽ hiểu hơn
điều đó khi làm quen với con tàu và những nhân viên của nó.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét