Chủ Nhật, 3 tháng 2, 2013

Áp ngực vào đất Vĩnh Linh


Chúng tôi về mảnh đất "bên ven bờ Hiền Lương", một ngày trước dịp kỷ niệm 50 năm ngày thành lập đặc khu Vĩnh Linh (nay là huyện Vĩnh Linh, tỉnh Quảng Trị) vào tháng 8 này. Càng đi, càng biết, càng hiểu, lại càng thấy thấm thía câu thơ "Đến Vĩnh Linh vốc lên từng nắm đất/Hiểu thêm nhiều sự thật lạ lùng hơn"...

Chúng tôi đi từ phía Nam ra, từng bước một, chậm rãi như đếm từng tấm ván của cầu Hiền Lương vừa được phục chế theo "bản gốc", cạnh đó là cầu Hiền Lương mới, được hoàn thành bằng công nghệ đúc hẫng (???) tiên tiến nhất hiện nay. Chỉ cần chưa đầy ba mươi giây, xe đã vù qua cầu. Thế mà, suốt 20 năm trước ngày giải phóng, bước chân người từ "ngoài ấy" vào phải dừng lại ở vạch hạn định ba nhịp rưỡi đầu Bắc sơn xanh, người "trong ấy" ra chỉ được bước đến ba nhịp rưỡi đầu Nam sơn nâu của cầu Hiền Lương bảy nhịp. Và đây là địa giới của Vĩnh Linh ngày đó.
Sách cũ chép rằng: Châu Minh Linh có từ đời Lý (thế kỷ XI), trước đó có tên là Ma Linh, sau đổi thành Nam Linh. Đến đời Lê, huyện Minh Linh thuộc phủ Tân Bình (Quảng Bình hiện nay). Vào thế kỷ XIX, lúc thì thuộc dinh Quảng Trị (đời Gia Long), lúc thì thuộc phủ Triệu Phong hoặc huyện Địa Linh (thời Minh Mạng). Năm 1885, gọi là Chiêu Linh (vì húy chữ Minh). Đến năm 1889 thì đổi thành Vĩnh Linh.
Từ châu Minh Linh đến huyện Vĩnh Linh là cả một thời kỳ lịch sử dài (từ triều Lý đến triều Nguyễn). Nhưng sự thay đổi về hành chính, danh xưng và phát triển của cư dân vùng này còn chưa dừng lại ở đó. Năm 1954, Hiệp định Giơ-ne-vơ về chấm dứt chiến tranh lập lại hòa bình trên bán đảo Đông Dương được ký kết, vùng đất Vĩnh Linh dọc dài 10 km (phía Bắc giáp huyện Lệ Thủy - Quảng Bình, phía Nam giáp sông Hiền Lương - vĩ tuyến 17 - Quảng Trị) trở thành một vùng đất hết sức nhạy cảm từng được gọi là đặc khu Vĩnh Linh. Mới đó mà đã 50 năm rồi!
"Cuối cùng rồi cũng có hòa bình. Hãy quên và tha thứ cho chúng tôi... Hãy để cho chúng tôi rút ra bài học về quá khứ...". Wiliam A.Bery, một cựu binh Mỹ có mặt tại chiến trường miền Nam từ những năm 1966 - 1968 đã viết những dòng này vào sổ lưu niệm Nhà bảo tàng địa đạo Vịnh Mốc năm 1997. Trung bình mỗi mét vuông đất Vĩnh Linh đã hứng chịu 9,6 tấn đạn bom, mỗi người dân từ bé đến lớn phải gánh chịu 7 tấn bom và 10 quả đạn pháo... Không biết ông ta rút ra "bài học" gì ở con số này?
Nhà báo Nguyễn Tiến Đạt, người chứng kiến chuyện này kể lại rằng, lúc ấy có một lão ngư gầy gò cầm cái mai chèo đứng cạnh, hỏi: "Lạo (lão) này viết chi rứa?". Wiliam thấy chiếc mai chèo là lạ nên quay sang bắt chuyện. Lão ngư nghe người phiên dịch nói xong thì cười: "Cái mai chèo này ngày xưa dùng để đánh giặc, bây giờ dùng để nuôi vợ nuôi con. Hồi chiến tranh, ông bay đến vùng ni ném bom thì chắc biết mặt tui". Cho đến sau này, Wiliam vẫn không thể nào biết được, lão ngư ấy chính là anh hùng Lê Văn Ban, người làng Tùng Luật, xã Vĩnh Giang, nơi có bến đò B hai lần anh hùng. Và hẳn, không người Mỹ nào có thể tưởng tượng được bằng cái mai chèo ấy, ông Ban đã dùng để chèo thuyền vượt qua hàng trăm trận bom, thủy lôi và bọn hải tặc để tiếp tế cho đảo Cồn Cỏ xa bờ 30 hải lý suốt những năm chống Mỹ với tinh thần “Cồn Cỏ còn là Tổ quốc còn”. Ông Ban bảo "biết mặt tui" là vì lẽ đó.
Vào thời sinh viên, tôi có ba tháng làm luận văn ở vùng đất sinh ra chuyện trạng Vĩnh Hoàng. Bản lĩnh của người dân vùng "lũy thép" Vĩnh Linh qua từng câu chuyện khiến tôi bị ám ảnh một thời gian dài, và cho đến nay vẫn không thể nào quên được. Hồi ấy, tôi tìm cách cắt nghĩa cho được, vì sao, hàng ngày trong tiếng máy bay gầm rú, bom đạn cày nát từng tấc đất, người Vĩnh Linh vẫn lạc quan, coi khinh hiểm nguy đến thế.
Tục ngữ Nga có câu: "Anh hãy cho tôi biết anh cười ai, tôi sẽ nói cho anh biết anh là người thế nào". Điều này thấy rõ khi đến đất Vĩnh Linh, nghe người dân kể chuyện cười. Trong hàng trăm câu chuyện ấy, có chuyện một cụ già bị bom vùi lấp, dân quân đến đào hầm để cứu. Khi mới thò được cái đầu khỏi đất, cụ tỉnh rụi: "Cho bọ (bố) xin điếu thuốc đã". Rồi mặc dầu còn bị đất lấp trên người, cụ vẫn thản nhiên: "Sang vườn bên tê cứu mấy mệ cháu nhà bên nớ, còn bọ, hút hết điếu thuốc ni là bọ tự lên được". Khi biết cụ bị thương, y tá định đưa đi viện, cụ ngồi tỉnh queo, tay nắn vào mông, đoạn à lên một tiếng thiệt... Vĩnh Hoàng: "Mệ mi ơi! Cái mảnh bom đây rồi, chà, hắn cứng gớm. Mệ đem đôi đũa bếp ra đây gắp hắn ra cho tui với".
Bom đạn của địch hầu như lúc nào cũng "thường trực", chả thế mà có chuyện một bà mẹ đi chợ về, mấy đứa con phát hiện trong thúng gạo đội trên đầu có một quả bom bi, chuyện khủng khiếp như thế mà giọng bà mẹ vẫn như không: "May mà có thúng gạo ni, không thì hắn mượn cái đội lịp (nón) của tau rồi!". Cách hành xử này vừa có tính hài hước, vừa giễu cợt kẻ thù, nó chứa đựng sức mạnh và bản lĩnh của người Vĩnh Linh khi họ phải đối đầu với hiểm nguy luôn rình rập.

*
Ai từng đến Vĩnh Linh, hẳn phải thăm địa đạo Vịnh Mốc. "Làng địa đạo Vịnh Mốc" bây giờ là di tích lịch sử văn hóa. Công trình tôn tạo di tích này vừa được hoàn thành vào ngày 22/7 mới rồi. Vĩnh Linh là nơi duy nhất ở nước ta (và có thể của toàn thế giới) có đến 114 "làng hầm" với tổng chiều dài hơn 40 km, nơi sâu nhất âm 30m cùng một hệ thống giao thông hào dài 2.000 km. Các "làng hầm" đều có đủ "cơ sở hạ tầng" như hội trường, bệnh xá, trường học, trụ sở chính quyền, căn hộ, bếp, giếng nước... Đào địa đạo là một chuyện khó, vì theo lời kể của người trong cuộc, trên một trục địa đạo đã được xác định, người ta đào hai cái giếng sâu chừng 20m, từ hai đáy giếng, hai nhóm người phải đào làm sao có thể thông được với nhau kiểu như khoan đường hầm đèo Hải Vân bây giờ vậy. Khó khăn nhất là đoạn giáp mối để thông hầm, vì có thể bên đào lên cao, bên xuống thấp, bên lệch phải, bên qua trái. Kinh nghiệm đào địa đạo của người Vĩnh Linh về chuyện này rất... đơn giản: Cử hai người đang yêu nhau đào hai nhóm, nhờ đó mà hai người này "nghe nhịp đập của trái tim" mà tìm đến nhau. Trong bom đạn ác liệt, cái chết cận kề, người Vĩnh Linh vẫn nghĩ ra chuyện này (cho dù để kể vui) cũng quả thật thông minh và... lãng mạn.
*
Buổi trưa, uống chè xanh tại nhà bác Bản ở làng Tùng Luật, nghe bác kể chuyện thời chiến tranh, ở ngay bến đò này trong 7 năm (1967 - 1973) người dân quê bác đã đưa hơn 2 triệu lượt bộ đội cùng hàng chục vạn tấn lương thực qua sông chi viện cho chiến trường miền Nam ruột thịt. Bác còn tự hào về cái làng nhỏ nhoi này sinh ra đến 20 nghệ sĩ nhân dân, nghệ sĩ ưu tú. Trong đó có nghệ sĩ Châu Loan, Lệ Thi... một thời đêm đêm cả nước lại ngóng tiếng hát, tiếng ngâm thơ của họ trên đài tiếng nói Việt Nam. Khi biết bác đang giấu trong mình căn bệnh ung thư, chúng tôi không khỏi ái ngại. Bác biết ý và cười: "Có chi mô các chú. Tui sống đến ngày hòa bình là thấy có lời (lãi) rồi. Sống đến chừ thì lời hung!".
Lặn một hơi ra giữa dòng sông Bến Hải, nhìn vào rồi nhìn ra, chỉ cần một hơi nữa là sang phía bên kia. Lạ thật, thế mà suốt hai mươi năm đau đáu một nỗi đau chia cắt. Đau đáu trong nỗi niềm câu hát: "Bên ven bờ Hiền Lương/Chiều nay ra đứng trông về/Mắt đượm tình quê/Đôi mắt đượm tình quê...". Câu hát đó bây giờ mỗi lúc ngân lên tình cảm mỗi người vẫn dâng trào trên khóe mắt. "Hò ơi! Dù cho bến cách sông ngăn/Dễ gì rẽ được duyên anh với nàng/Xé mây cho sáng trăng vàng/Khai sông mở lối cho nàng về anh...".
Năm 1972, người Vĩnh Linh bước lên khỏi địa đạo, họ bảo quê của mình lúc ấy y như cái... mặt trăng. Một phần đất trắng, ba phần là sắt thép đạn bom. Khó khăn nối tiếp khó khăn. Hồi ấy thị trấn Hồ Xá (bấy giờ là huyện lỵ của huyện Bến Hải, sau này tách thành Vĩnh Linh và Gio Linh) xây được cái santono cấp nước nhưng không có nước trông như trái bầu khô, nhà máy điện nhưng điện thì chỉ sáng bằng cái bật lửa, đào ao thả cá nhưng không có nước nên trở thành nơi... đá bóng. Người Vĩnh Linh tự trào: "Hồ Xá có
trái bù (bầu) khô/Có nhà máy lả (lửa) có hồ đá banh". Chuyện ấy bây giờ đã trở thành quá khứ.
***
Trở lại vĩ tuyến 17, đứng trên cầu Hiền Lương, một người con Quảng Trị từ nghèo khó nay đã trở thành một doanh nhân thành đạt ở xa quê đăm đắm nhìn dòng Bến Hải. Anh đang ôm ấp dự định xây một khu du lịch mang tên Hiền Lương, trong đó có một khách sạn đặt tên là Vĩ tuyến 17 ngay giữa gò nổi con sông. Anh bảo, cái "thương hiệu" này không cần quảng cáo cũng đã nổi tiếng rồi và không thể ai tranh chấp được.
Nhà thơ Ngô Minh viết: "Đến Vĩnh Linh vốc lên từng nắm đất/Hiểu thêm nhiều sự thật lạ lùng hơn". Đêm, tôi áp ngực vào đất Vĩnh Linh, nghe tiếng vọng của những truyền kỳ, nhịp thở của cuộc sống mới, nếu là tôi lúc ấy, bạn sẽ tin như tôi đã tin, kể cả những gì đang ở phía trước.
Quảng Trị cuối tháng 7/2004

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét