8h30 ngày 16.6.1957,
chuyên cơ IL II 203 đáp xuống sân bay Đồng Hới (Quảng Bình), mảnh đất chỉ cách
vĩ tuyến 17 về phía bắc 70km. Một cụ già giản dị từ trên máy bay bước xuống,
theo sau là Đại tướng Nguyễn Chí Thanh. Đó là chuyến đi xa nhất vào phía Nam
của Chủ tịch Hồ Chí Minh trong chuyến thăm đồng bào Quảng Bình-Vĩnh Linh vùng giới
tuyến. Chuyến đi tuyệt đối bí mật của Bác sau
nhiều năm mới có nhiều tình tiết được hé lộ.
Một ngày trên đất Quảng
Bình
Chuyến bay phải được giữ tuyệt đối bí mật nên nhân dân Đồng
Hới không ai được biết. Ra sân bay đón Bác chỉ có Bí thư Tỉnh ủy Quảng Bình Cổ
Kim Thành; Chủ tịch Ủy ban Hành chính tỉnh Nguyễn Tư Thoan và Chính ủy Sư đoàn
325 Hoàng Văn Thái.
Đoàn cán bộ đi theo Bác cũng không nhiều, ngoài Đại tướng
Nguyễn Chí Thanh, Ủy viên Bộ Chính trị, Chủ nhiệm Tổng cục Chính trị còn có Chủ
tịch Ủy ban Hành chính Liên khu 4 Hoàng Văn Diệm; ông Vũ Kỳ, Thư ký riêng của
Bác; ông Đỗ Viết Kháng, Cục trưởng Cục Bảo vệ và ông Nhữ Thế Bảo, bác sĩ chuyên
trách bảo vệ sức khỏe của Người.
Chiếc xe Povida đưa Bác về trụ sở Ủy ban Hành chính tỉnh.
Bác không nghỉ mà đi luôn vào thăm nơi làm việc và nhà ăn của cán bộ công nhân
viên. Liền sau đó làm việc với các đồng chí lãnh đạo tỉnh. Đến 11h30 mới nghỉ
ăn một bữa cơm đạm bạc. 13h45 tiếp đoàn đại biểu Vĩnh Linh và đoàn cán bộ hoạt
động bí mật vùng Nam
giới tuyến. 14h15 tiếp đoàn đại biểu dân tộc Vân Kiều. 14h30 gặp gỡ đoàn nhân
sĩ, trí thức. 15h, gặp mặt 500 cán bộ cốt cán của tỉnh. 16h, Bác nói chuyện với
3 vạn đồng bào tại sân vận động Đồng Hới. 17h30, Bác đến thăm và nghỉ tại nhà
nghỉ của Sư đoàn 325 tại bãi biển Nhật Lệ. Theo kế hochj, ngày hôm sau Bác sẽ
gặp gỡ, nói chuyện với cán bộ, chiến sĩ Sư đoàn 325 nhưng kế hoạch đã phải thay
đổi, cuộc gặp gỡ được tổ chức sớm hơn và 4h sáng ngày 17.6. Bác chỉ nói chuyện
với bộ đội được 5 phút rồi ủy nhiệm lại cho Đại tướng Nguyễn Chí Thanh để kịp
lên máy bay vào lúc 5h sáng cùng ngày.
Nguyên nhân của sự thay đổ này bắt đầu từ một bức điện khẩn
của Bộ tư lệnh 09 yêu cầu chuyên cơ chở Bác phải vượt qua Đèo Ngang trước 7h
sáng.
Câu chuyện bí mật này chúng tôi sẽ đề cập ở phần sau.
“Ta có khuyết điểm
thì nói ra để mà sửa”
Nói chuyện với 500 cán bộ cốt cán của tỉnh, Bác mở đầu rất
ngắn gọn:
Thưa các đồng chí
trong Đảng và ngoài Đảng!
Thay mặt Trung ương
Đảng và Chính phủ đưa đến với các đồng chí lời chào thân ái.
Sau đây tôi nêu ra mấy
ưu điểm, mấy khuyết điểm, mấy nhiệm vụ. Ưu điểm để phát huy, khuyết điểm để sửa
chữa, nêu nhiệm vụ để chấp hành.
53 năm sau, đọc lại bài lược ghi ý kiến của Bác tại buổi nói
chuyện, thấy rõ nét dung dị, cụ thể, đi thẳng vào từng vấn đề một cách ngắn
gọn, khúc chiết và sâu sát của vị lãnh tụ. Phần khuyết điểm Bác chỉ ra từng
việc, có dẫn chứng cụ thể cho từng việc đó. Tóm lại cán bộ có 9 khuyết điểm như
sau:
1. Có óc suy nghĩ tị
nạnh, kèn cựa việc đãi ngộ.
2. Cứ ngồi lo tiền đồ
mà không hành động.
3. Có óc công thần.
4.Tự do cá nhân.
5. Khuyết điểm trên là
do không giữ kỷ luật lao động, xem khinh lao động chân tay, không thấy lao động
chân tay là vẻ vang.
6. Rượu chè be bát,
say sưa lu bù, nhất là tết nhất, cờ bạc, đồng bóng, hủ hóa.
7. Lãng phí dân công
do đó mà hại sản xuất, phí công quỹ, hại đến Nhà nước; hại xây dựng nông
nghiệp.
8. Không thích học tập
nhưng ưa tiến bộ.
9. Đoàn kết kém.
Kết thúc buổi nói chuyện, Bác so sánh:
-Lúc vận động Cách
mạng Tháng Tám, ta chỉ có 4 ngàn đảng viên từ Nam chí Bắc; địch thì mạnh, có
chính quyến, quân đội, mật thám, nhà pha; ta chỉ có tay không, vậy mà cách mạng
đã thành công.
Bây giờ Quảng
Bình-Vĩnh Linh có 5.500 đảng viên, ta lại có chính quyền, bộ đội, mặt trận. So
sánh 4.000 đảng viên của toàn quốc trước cách mạng và 5.500 đảng viên chỉ riêng
Vĩnh Linh-Quảng Bình cái nào dễ, cái nào khó? Trước khó nhưng đảng viên tin
chắc, quyết tâm nên làm được; nay dễ hơn phải làm được. Nếu không làm được thì
nghĩ thế nào? Phải học tập các đồng chí trước để làm cho được.
Rồi Bác hỏi:
-Các cô, các chú có
hứa quyết tâm không? Có làm được không? Có tin tưởng không?
Tất cả đồng thanh đáp:
-Có!
-Có!
Bác trở nên nghiêm khắc:
-Làm được thì Bác
thưởng, làm không được thì Bác phạt.
Tất cả đáp:
-Vâng ạ!
Trong buổi nói chuyện với 3 vạn đồng bào tại sân vận động
Đồng Hới sau đó, Bác nói:
-“Thuốc đắng dã tật,
nói thật mất lòng”, nhưng có khuyết điểm ta cố gắng sửa. Sau khi sửa có thể trở
thành ưu điểm. Ta nêu khuyết điểm có sợ bị địch lợi dụng không? Không sợ! Ta có
khuyết điểm thì nói ra để mà sửa. Với địch ta không có khuyết điểm nó cũng bịa
ra mà nói. Ta không sợ nó nói xấu, cũng không sợ nó nói gì hết. Bây giờ tôi nói
về khuyết điểm, đồng bào có đồng ý không?
Tất cả đáp:
-Có ạ.
Sau khi phân tích một số khuyết điểm, Bác đi vào một việc cụ
thể:
-Chúng ta đang xây một
số nhà máy. Lấy tiền đâu ra? Có phải lấy ở Bác Hồ không? Bác Hồ không có tiền
đâu! Thế lấy ở đâu? Thuế! Nhưng hiện nay Quảng Bình còn nợ Chính phủ 900 tấn
thóc thuế của năm ngoái. Đồng báo có trả không?
Tất cả đáp:
-Dạ có!
Bác nói tiếp:
-Đồng bào hứa thì phải
làm đúng lời hứa đấy!
“Bác rất muốn vào
thăm bà con vùng giới tuyến”
Vào thời điểm đó, đã một năm địch phản bội lại Hiệp định
Giơ-ne-vơ, việc đi lại qua giới tuyến rất khó khăn nhưng các cán bộ được cử
cũng đã kịp về Khu ủy Vĩnh Linh để nhận nhiệm vụ mới. Nhiệm vụ đó là ra Đồng
Hới để gặp Bác Hồ. Đoàn đại biểu Vĩnh Linh và đoàn cán bộ hoạt động bí mật vùng
Nam
giới tuyến do Bí thư Khu ủy Vĩnh Linh Hồ Sĩ Thản dẫn đầu được Bác tiếp đón rất
ân cần. Bác hỏi chuyện đi đường, chuyện hoạt động trong vùng địch hậu, hỏi hoàn
cảnh của từng người...Rồi Bác dặn một số điểm cần lưu ý trong xây dựng và bảo
vệ lực lượng, Bác nói: “Phải kiên trì, đừng nóng vội dễ bị hỏng việc. Phải
quyết tâm chiến đấu cho ngày độc lập”. Bác quay sang hỏi đồng chí Bằng, Trưởng
ty An ninh Quảng Trị: “Bà con trong ấy có khỏe không?”. Ông Bằng thưa với Bác:
“Dạ, bà con ai cũng mong được đón Bác vào thăm”. Bắc trầm ngâm một lát rồi nói:
“Bác biết thế, nhưng lần này Bộ Chính trị không chấp thuận để Bác vào. Các chú
ra đây là thay mặt cho cán bộ và nhân dân Vĩnh Linh- Quảng Trị nói cho Bác nghe
tình hình trong đó”.
Sau khi nghe Bí thư Khu ủy Hồ Sĩ Thản báo cáo, bác nói:
-Thời gian không nhiều
nhưng qua các chú Bác biết được tình hình trong đó thế là tốt. Bác rất vui vì
bà con mình không chịu khuất phục kẻ thù. Nhưng các chú nhớ cho, kẻ thù sẽ còn
gian xảo, quỷ quyệt hơn, cuộc chiến tranh còn dài, còn gian khổ đấy. Muốn chiến
thắng kẻ thù chúng ta phải không nóng vội, không thể ngày một ngày hai. Bây giờ
phải phát động quần chúng. Xây dựng cơ sở đi đôi với từng bước một đấu tranh
chính trị và chuẩn bị lực lượng vũ trang. Không được ai ảo tưởng mà phải xác
định phải đánh giặc để giành thắng lợi. Nhưng các chú nhớ là không được nóng
vội, phải theo sự chỉ đạo của trung ương từng ngày, từng giờ.
Bác nói với Bí thư Hồ Sĩ Thản:
-Chú Thản lãnh đạo xây
dựng khu vực Vĩnh Linh cho thật mạnh, thật đẹp. Vĩnh Linh là đại diện cho miền
Bắc để bà con bờ Nam tin tưởng vào miền Bắc. Còn các chú ở miền Nam phải nói
cho bà con tin tưởng vào miền Bắc. Ngày thống nhất đất nước, Bác sẽ vào Quảng
Trị, Thừa Thiên, vào Nam...Bác cháu ta sẽ gặp nhau.
Khu áp thấp nhiệt đới
và chuyến bay trước bình minh
Sau cuộc vui liên hoan ngoài bãi biển Nhật Lệ với cán bộ,
chiến sĩ nhà khách Sư đoàn 325, bảo vệ mời Bác vào phòng nghỉ. Dừng lại trước
cửa phòng Bác hỏi: “Ở đây trăng sáng, gió mát, chú cho Bác nghỉ trong phòng thì
làm sao thưởng thức được biển”. Nói xong, Bác ôm luôn chiếc chiếu hoa và chiếc
gối ra trước hiền nhà, tự tay trỉ ra nằm nghỉ. Chuinhs ủy Sư doand 325 Hoàng
Văn Thái rất lo cho công tác bảo vệ nhưng Đại tướng Nguyễn Chí Thanh bảo: “Cứ
để cho tự nhiên, tùy Bác...”.
Theo kế hoạch, sáng mai Bác sẽ gặp gỡ và nói chuyện với cán
bộ, chiến sĩ Sư đoàn 325 tại sân vận động Đồng Hới, nhưng 23h đêm đó, Đại tướng
Nguyễn Chí Thanh nhận được tin báo của trực ban Bộ tư lệnh 09 đi bảo vệ chuyến
bay hiện đang trực tại sân bay Đồng Hới: “Ngày mai, 17.6, một khu áp thấp sẽ
hình thành từ Thanh Hóa trở vào, gây mưa to gió lớn trong 5 ngày liền. Trung
ương mời Bác trở ra Hà Nội”. Bộ tư lệnh 09 đề nghị, máy bay chở Bác phải vượt
qua Đèo Ngang trước 7 giờ sáng.
Đại tướng Nguyễn Chí Thanh hội ý với các đồng chí trong đoàn
và quyết định chuyển cuộc gặp gỡ bộ đội sang 4h sáng rồi báo cáo lại toàn bộ sự
việc với Bác.
Ngay lập tức Chính ủy Hoàng Văn Thái điện báo cho Tham mưu
trưởng Sư đoàn Lê Đình Sung phát lệnh báo động, khẩn trương tập kết các trung
đoàn 18, 95 và 101 tại sân vận động trước 4h sáng.
Đúng 4h. Đèn pha sân vận động bật sáng. Bác xuất hiện trân
khán đài, khoan thai giơ ta vẫy chào bộ đội trong tiếng hoan hô, reo mừng. Bác
nói chuyện được chừng 5 phút thì dừng lại, nói: “Đáng lẽ Bác nói chuyện nhiều
với các cô, các chú, nhưng vì Trung ương có điện khẩn, Bác phải về Hà Nội ngay.
Bác ủy nhiệm cho chú Thanh thay mặt Bác nói chuyện với các cô, các chú”. Đại
tướng tiến đến chỗ Bác, nói chuyện ngay với bộ đội, đoàn xe đưa Bác ra sân bay
Đồng Hới.
5h kém 15, trời chưa sáng hẳn. Bác xuống xe, không vào phòng
khách mà rút đôi dép cao su ngồi xuống bên thảm cỏ cạnh đường băng. Mọi người
cùng ngồi xuống. Bác quay mặt vào phía Nam , trầm ngâm. Cách đây không quá
70km là dòng Bến Hải, bên kia, một mảnh hình hài của đất nước còn trong nỗi đau
chia cắt.
Đúng 5h, Bác đứng dậy: “Bác rất tiếc là thăm Quảng Bình-Vĩnh
Linh chưa hết chương trình đã phải trở về. Bác về rồi Bác lại vô!”.
Chiếc chuyên cơ màu nhũ bạc mang số hiệu IL II 203 rời đường băng, lượn một vòng thị xã
tỉnh lỵ, nghiêng cánh cháo đồng bào rồi phút chốc chuyển thành một giọt nắng
lấp loáng bay về phương Bắc.
Rất nhiều năm sau, trong hội thảo “Bác Hồ với Đồng Hới, Đồng
Hới với Bác Hồ”, đồng chí Vũ Kỳ, Viện trưởng Viện Bảo tàng Hồ Chí Minh, nguyên
Thư ký riêng của Bác mới cho biết: Cùng với bức điện của Bộ tư lệnh 09 về khu
áp thấp xuất hiện, còn có một bức điện khác của bộ Công an gửi Bộ tư lệnh 09 mà
chỉ được truyền đạt đến Bác khi máy bay cất cánh, nội dung: “Nhận thấy bên kia
giới tuyến có sự hoạt động không bình thường, mời Bác ra ngay”.
Không ngờ đó lại là chuyến đi vào Nam xa nhất và cuối cùng sau một
vòng bôn ba khắp trái đất của Bác Hồ.
N.T.T
(Bài viết sử dụng tài
liệu gốc trong cuộc hội tháo “Bác Hồ với Đồng Hới, Đồng Hới với Bác Hồ”)
Box I:
Đêm đó nằm bên cạnh Bác,
Bác cứ trằn trọc không ngủ được, liên tiếp đốt thuốc lá, rồi Bác nói: “Mẹ mình
mất ở Huế, bố mất ở Cao Lãnh, quê mình còn suốt mãi trong kia, cho nên mình về
thăm quê lần này, mới dừng chân lại ở đây vẫn là chưa đi đến nơi về đến chốn”.
(VŨ KỲ, nguyên Thư ký riêng của Bác)
Box II:
-Chú có biết Quảng
Bình có câu đối “Bò đi đá nhảy” đến
nay đã có ai đối được chưa?
Đồng chí Nguyễn Thanh
Đàm đứng bên cạnh thưa
-Thưa Bác, có ông Tú
người làng La Hà đối được ạ!
Bác hỏi:
-Đối thế nào?
-Dạ ông ta đối là “Hùm
hét la hà”.
-La Hà ở đâu, chú có
bản đồ cho Bác xem.
Tôi chạy đi lấy bản đồ
trải ra chỉ vào địa danh La Hà (thuộc xã Quảng Văn, Quảng Trạch). Bác xem xong
thì hỏi:
-La Hà nằm ở hạ nguồn
sông Gianh, lại giữa một cái cồn, hùm về thế nào được?
Mọi người lúc đó mới ớ
ra.
Bác nói tiếp:
-Lúc 16 tuổi, cùng các
cụ đồ xứ Nghệ vào thi hương ở Huế, khi đi qua vùng Đá Nhảy của Lý Hòa, một thầy
đồ thấy một con bò gặm cỏ đá phải hòn dá lăn xuống khe, bèn ra vế đối thách
nhau. Đây là vế đối gắn liền với địa danh Đá Nhảy nhưng lại nói về bốn hoạt
động của cái chân con người (bò, đi, đá, nhảy). Ông Tú ở làng La Hà cũng giỏi,
đối lại bằng bốn hoạt động của cái miệng (hùm, hét, la, hà). Vế đối hay, chữ
nghĩa đấy nhưng có thực tế không?
Mọi người chịu cái
thực tế Bác đặt ngược lại như thế. Hơn nữa, lúc đó Bác đã 67 tuổi mà vẫn có một
trí nhớ đặc biệt.
(CỔ KIM THÀNH, nguyên Bí thư Tỉnh ủy Quảng Bình)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét